Gần 100 triệu người tiêu dùng Việt Nam sẽ được mua đường giá đắt hay rẻ?
Việc thực thi Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA) có hiệu lực từ ngày 1/1/2020 liệu có đẩy hơn 2 triệu lao động, nông dân và đồng bào sống bằng nghề trồng mía vào cảnh bấp bênh khi không có cơ hội cạnh tranh bình đẳng?
Mía đường trong nước đã vượt khó thành công…
Ông Đặng Việt Anh – Chủ tịch HĐQT Công ty CP mía đường Sơn La cho biết, gian lận thương mại, đường lậu từ Thái Lan đã gây tổn thất cho ngành mía đường Việt Nam trong thời gian dài và nghiêm trọng hơn, trong hai năm vừa qua việc buôn lậu gian lận thương mại, buôn lậu quy mô lớn, trắng trợn, công khai đã khiến cho một phần ba các nhà máy đường Việt Nam đóng cửa, nhiều cánh đồng mía bỏ hoang vì thua lỗ và nông dân chưa biết trồng cây gì thay thế.
Hội nhập trong hoàn cảnh cạnh tranh bất bình đẳng và gian lận thương mại từ Thái Lan vào thời điểm này sẽ đẩy nông dân và các nhà máy vào “tử địa”. Các hộ nông dân trồng mía, doanh nghiệp chế biến đường chắc chắn sẽ chịu tổn hại to lớn, thậm chí ngành mía đường Việt Nam đứng trước nguy cơ bị “xoá sổ”. Thị trường của gần 100 triệu người tiêu dùng Việt Nam sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào đường nhập khẩu từ Thái Lan. Câu hỏi đặt ra là nếu Thái Lan khống chế được thị trường đường Việt Nam thì người tiêu dùng và khách hàng chế biến công nghiệp sẽ phải mua đường với giá đắt đỏ hay giá rẻ?
Trong khi đó, ngành mía đường Việt Nam thực chất đã vươn lên đạt năng lực sản xuất tiệm cận thế giới, trong khi thiên nhiên không hề ưu đãi cho ngành này. Xuất phát điểm khó khăn và hoàn cảnh bất khả thi về cơ giới hoá, công nghiệp hoá toàn diện là thế nhưng năng suất mía của người nông dân Việt Nam đạt bình quân 65 tấn/ha so với 68-70 tấn/ha của Thái Lan là rất đáng ghi nhận và khen ngợi. Cây mía trở thành một cây trồng xoá đói giảm nghèo tại nhiều địa phương đặc biệt khó khăn, thổ nhưỡng, khí hậu khắc nghiệt, chỉ trông chờ vào “nước trời”.
Theo Hiệp hội Mía đường Việt Nam, 10 năm qua ngành mía đường đã đầu tư hơn 20.000 tỷ đồng để cải tiến máy móc công nghệ nhằm đón đầu hội nhập. Đến nay, hầu hết các nhà máy đường trong nước đều có nền tảng công nghệ, kỹ thuật tự động và đạt tầm quốc tế.
Nói ngành mía đường Việt Nam yếu kém, nhưng trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, giá đường của chúng ta cạnh tranh hơn tất cả các quốc gia, trừ Thái Lan. Và nhìn rộng ra tầm thế giới, chúng ta cũng chỉ thua các cường quốc về mía đường như Brazil do họ có quá nhiều điều kiện tự nhiên ưu đãi.
Tại sao lại để “chết tức tưởi”?
Trong bối cảnh như vậy, nếu thực hiện loại bỏ hạn ngạch thuế quan để thực thi ATIGA, đồng nghĩa với việc ngành mía đường Việt Nam phải đối mặt trực diện với sự cạnh tranh bất bình đẳng của Thái Lan. Ngành mía đường nước ta đang chịu nhiều sức ép từ tác động, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng; cạnh tranh quyết liệt của cây trồng khác; tình trạng khan hiếm và thiếu lao động trong nông nghiệp; tình trạng gian lận thương mại, buôn lậu đường ngày càng gia tăng… thì việc gia nhập và thực thi Hiệp định ATIGA theo lộ trình từ 01/01/2020 chắc chắn sẽ càng tạo ra những áp lực lớn đối với ngành mía đường. Các hộ nông dân trồng mía, doanh nghiệp chế biến đường chắc chắn sẽ chịu tổn hại to lớn.
Trước năm 90, Việt Nam phải nhập khẩu cả tỷ USD để phục vụ cho tiêu dùng. Nhưng khi có 44 nhà máy với hơn một triệu tấn đường theo chương trình của Chính phủ đã đáp ứng nhu cầu cho xã hội, không phải nhập khẩu, nhập siêu, tiết kiệm được tiền cho Nhà nước. Bên cạnh đó, ngành mía đường đưa cây mía vào vùng sâu vùng xa, biên giới, không đường giao thông, mở đường cho nông dân trồng mía; đảm bảo giá mía đảm bảo cuộc sống cho nông dân.
Địa hình gây khó khăn cẳn trở việc thua mua mía, cân chuyển mía về nhà máy nếu thời tiết khó khăn (như mưa sẽ gây sụt lún đường, cản trở việc đưa mía về nhà máy) |
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế là phù hợp, là xu thế tất yếu. Tuy nhiên tiến trình hội nhập cần bảo đảm thực hiện có hiệu quả, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, môi trường cạnh tranh công bằng và minh bạch cho các doanh nghiệp. Rõ ràng, ngành mía đường đã vượt khó thành công, vậy tại sao lại đứng trước nguy cơ “chết tức tưởi”?
Ông Thạch Phước Bình – Phó Trưởng đoàn Đại biểu quốc hội tỉnh Trà Vinh cho biết, hiện tỉnh Trà Vinh có khoảng 4.500 – 5.000ha diện tích đất trồng mía đường. Thời gian qua, đời sống của người dân và công ty mía đường phát triển rất tốt và là một trong ngành mũi nhọn của tỉnh. Tuy nhiên, gần đây giá mía giảm sâu khiến đời sống bà con vô cùng khó khăn. Từ 4.500ha giảm xuống còn 3.500ha, điều này khiến nguyên liệu cung cấp cho nhà máy trên địa bàn tỉnh giảm nên phải nhập của các nơi khác.
Hiện chi phí đầu tư của bà con với mỗi 1.000m2 gồm chi phí chăm sóc, phân bón khoảng 7 triệu đồng nhưng với giá bán 800 đồng thì chỉ được khoảng 3-4 triệu nên ảnh hưởng rất lớn đến đời sống. Hiện bà con nông dân nợ ngân hàng rất nhiều, nhiều hộ phải cầm cố đất đai. Thậm chí có tình trạng người dân đã bỏ mặc mía đường vì càng đầu tư càng lỗ. Nhiều hộ dân chuyển sang trồng cây trồng khác hoặc nuôi trồng thủy sản, nhưng việc này không hề đơn giản.
Một số nông dân đã dùng đất trồng mía để đào ao nuôi cá lóc nhưng nuôi cá lóc lại bấp bênh, nhiều rủi ro và không thể quay lại trồng mía được nữa. Có thể nói, nghề trồng mía trở thành nghề truyền thống “cha truyền con nối”, bà con nông dân làm giàu từ cây mía nhưng giờ trở thành hộ tái nghèo.
Đừng để rơi vào “bẫy hội nhập” rồi mới bàn
TS. Nguyễn Minh Phong – Chuyên gia kinh tế cho rằng, chúng ta thường để rơi vào bẫy rồi mới làm, mới bàn để tìm giải pháp. Ngành mía đường cũng tương tự, chỉ còn 6 tháng nữa mới lôi ra mổ xẻ, liệu còn kịp? Mía đường là ngành quan trọng, không chỉ với nông nghiệp, nông dân.
“Chúng ta nói Thái Lan có bảo hộ vậy thì sao Việt Nam không làm? Chúng ta cũng áp dụng được những biện pháp không thua kém nước ngoài. Chúng ta đưa ra những giải pháp bảo hộ cần thiết phù hợp và khả thi. Nếu chúng ta không làm được điều đó là lỗi của ngành Công Thương. Về vấn đề buôn lậu, nếu Quốc hội họ không ra được luật đó là lỗi của Quốc hội. Chúng ta phải có luật xử trách nhiệm cá nhân trong buôn lậu. Đồng thời, phải quy hoạch ổn định ngành mía đường tương đương với quy hoạch an ninh lúa gạo, ngăn chặn tự phát gắn với chính sách, chuỗi công nghiệp chế biến. Cần phải thực hiện hỗ trợ cho ngành mía tất cả các khía cạnh từ giống, tiêu dùng, xuất khẩu… Ngoài ra, chúng ta phải mở rộng hợp tác quốc tế. Tăng cường hợp tác trong nước để tái cơ cấu ngành mía đường. Bên cạnh đó, đa dạng hóa các sản phẩm từ mía đường, đặc biệt là về sản phẩm năng lượng”, TS. Nguyễn Minh Phong nhấn mạnh.
Theo Chủ tịch HĐQT nhà máy đường Sơn La Đặng Việt Anh, vấn đề đặt ra là các cơ quan chức năng nhất thiết phải tính toán, phân tích một cách đầy đủ, sâu sắc hệ lụy của việc thực hiện Hiệp định ATIGA đến lợi ích của quốc gia, người nông dân, đồng bào trồng mía, công nhân lao động và doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, Việt Nam cần xác định một lộ trình thực hiện cam kết ATIGA phù hợp, dựa trên các nguyên tắc công bằng, minh bạch, đảm bảo hài hoà lợi ích hợp pháp của quốc gia, các bên liên quan và ổn định an ninh, kinh tế, chính trị tại các địa phương.
“Cụ thể, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn này, các cơ quan chức năng xem xét tạo điều kiện 05 năm cho các nhà máy đường Việt Nam cùng nông dân khôi phục lại vùng nguyên liệu, ổn định sản xuất và an sinh xã hội địa phương, tái cân bằng vị thế với Thái Lan. Lộ trình sau 05 năm nữa sẽ thực thi ATIGA trên cơ sở tái đàm phán với Thái Lan về hạn ngạch và mức thuế nhập khẩu 20-25% như các nước Indonesia và Philipines đã làm (hiện nay cả Indonesia và Philippines đã thực thi ATIGA nhưng đều khống chế hạn ngạch và thuế suất nhập khẩu 5% và 10%). Do vậy 05 năm là khoảng thời gian để khôi phục cây mía, đảm bảo sinh kế cho nông dân đồng thời đánh giá tác động toàn diện của ATIGA cũng như tính toán mức thuế và hạn ngạch khi thực thi ATIGA”, ông Đặng Việt Anh nêu quan điểm.